Trong mùa mưa thường có những cơn mưa lớn và kéo dài với lưu lượng nước lớn, kèm theo là nhiệt độ không khí thấp sẽ làm cho nhiệt độ, độ mặn, pH và oxy hòa tan trong ao tôm giảm đột ngột dẫn đến tôm bị “sốc” môi trường và dễ phát sinh dịch bệnh. Việc biến động môi trường ao nuôi tôm trong những cơn mưa như vậy gây ra rất nhiều khó khăn cho người nuôi, kể cả những người nuôi nhiều kinh nghiệm. Do đó, các kinh nghiệm quản lý môi trường ao nuôi tôm nước lợ trong mùa mưa là vô cùng quan trọng để góp phần đưa tôm nuôi vượt qua dịch bệnh, phát triển tốt và đạt năng suất.
1. Kiểm tra hoạt động của tôm và môi trường ao tôm sau mưa
Do ảnh hưởng của những cơn mưa lớn thường môi trường ao tôm biến động, hoạt động của tôm bị ảnh hưởng. Do đó, ngay sau những cơn mưa, người nuôi tôm cần phải kiểm tra những biểu hiện hoạt động của tôm như hình dạng bên ngoài, màu sắc, phản xạ, đường ruột của tôm, thức ăn trong nhá…, đồng thời kiểm tra các yếu tố môi trường ao tôm thông thường như: pH, độ kiềm, độ đục, độ mặn. Nếu có dấu hiệu bất thường cần xử lý ngay để hạn chế những bất lợi cho tôm nuôi.
2. Giữ độ sâu mực nước ở mức tối ưu
Mực nước ao nuôi tôm dù trong mùa mưa hay mùa nóng đều không nên để quá sâu hoặc quá cạn. Mức nước tối ưu để hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của thời tiết đến ao tôm là 1,2-1,5 m. Khi mực nước ao tôm cao do nước mưa cần xả bớt lượng nước tầng mặt để duy trì mực nước trong ao, đồng thời tránh làm giảm độ mặn đột ngột, tràn bờ, vỡ cống bọng.
3. Tránh phân tầng nhiệt độ nước
Do tôm nước lợ là động vật biến nhiệt nên nhiệt độ cơ thể tôm có thể thay đổi theo môi trường trong khoảng nhiệt độ nhất định. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ ao tôm nằm ngoài mức cho phép thì tôm sẽ “sốc”, sức đề kháng kém, thậm chí tôm bị chết. Chẳng hạn, tôm thẻ chân trắng sẽ chết nếu nhiệt độ nước thấp hơn 15oC, tôm sẽ ngạt nếu nhiệt độ trong khoảng 15-22oC. Do đó, khi xuất hiện những cơn mưa lớn cần tăng cường chạy quạt nước để tránh sự phân tầng nhiệt độ, cung cấp thêm oxy và tăng nhiệt độ nước.
4. Không để nước ao tôm bị đục
Sau những cơn mưa lớn nước ao tôm thường bị đục do chất hữu cơ, hạt sét bị nước mưa cuốn trôi từ trên bờ xuống ao tôm. Khi nước đục sẽ làm hạn chế khả năng quang hợp của tảo làm tôm thiếu oxy, tảo thường tàn đột ngột, tôm bị đen mang, vàng mang do bị những vật chất lơ lửng trong nước bám vào mang tôm. Để khắc phục tình trạng này có thể sử dụng thạch cao với liều lượng 30 kg/1.000m2 để làm trong nước và lập lại 2-3 lần. Tuy nhiên cần phải chú ý tăng độ độ lên trên 100 mg/l rồi mới sử dụng. Sau khi nước giảm đục thì cần tiến hành gây màu tảo để tạo môi trường ổn định cho tôm nuôi.
5. Không để pH giảm thấp
pH trong ao nuôi tôm nước lợ tối ưu nằm trong khoảng 7,5-8,5. Tuy nhiên, nước mưa thường có tính axit, cộng với việc rửa trôi phèn từ bờ xuống ao tôm làm cho pH môi trường ao tôm giảm. Do đó, để hạn chế tình trạng này cần phải rải vôi (dạng khô) dọc theo bờ ao khi trời mưa với liều lượng 10 kg/100m2. Đồng thời, lấy đá vôi CaCO3 hòa tan vào nước, chắt lấy nước tạt đều xuống ao sau khi trời mưa với liều 15-20 kg/100m2 (chạy quạt để trộn đều nước), xử lý từ từ cho đến khi pH nằm trong ngưỡng cho phép (từ 7,5 trở lên).
6. Đưa độ kiềm về mức thích hợp
Đối với tôm sú, độ kiềm thích hợp là 85-130 mg/l; còn tôm thẻ chân trắng nằm trong khoảng 100-150 mg/l. Do đó, nếu sau mưa làm cho độ kiềm nước ao tôm thấp cần dùng Dolomite ngâm vào nước ngọt trong 24 giờ, sau đó tạt đều xuống ao vào 8-10 giờ đêm theo mức cứ 1,655 g vôi dolomite làm cho 1m3 nước tăng độ kiềm lên 1 mg/l hoặc dùng Soda lạnh 20ppm đến khi đạt yêu cầu. Ví dụ: để ao tôm 3.000m3 tăng độ kiềm từ 80 lên 90 mg/l thì cần 3000 x 1,655 x (90-80)/1.000= 46,65 kg. Lưu ý, mỗi lần tăng độ kiềm chỉ nên tăng khoảng 10 mg/l, bởi nếu độ kiềm tăng quá nhanh sẽ làm tôm bị sốc, sức đề kháng giảm.
7. Giảm thiểu các khí độc trong ao tôm
Các khí độc trong ao tôm như H2S, NH3, CH4 sinh ra do thức ăn dư thừa, xác tảo, phân tôm bị phân hủy dưới đáy ao tôm trong điều kiện thiếu oxy. Khi bị nhiễm độc, thân tôm thường có màu đỏ nhạt, vỏ ốp, bơi lờ đờ trên mặt nước, giảm ăn, thậm chí nếu nặng tôm có thể tấp bờ, chết rải rác đến hàng loạt. Để tránh tình trạng này cần quản lý chặt chẽ, tránh để dư thừa thức ăn, cần có ao xử lý để thay nước thường xuyên vào những tháng cuối. Đồng thời tăng cường chạy hệ thống máy quạt nước, định kỳ men vi sinh, si phon đáy ao, hút chất thải ra ngoài khi tôm được hơn 70 ngày tuổi. Nếu ao tôm phát hiện có khí độc có thể sử dụng muối hạt rải trực tiếp xuống đáy ao vào lúc trời có nắng với liều lượng 10kg/1.600m2, lặp lại liên tục 2-3 lần. Đồng thời bổ sung thêm vitamin C, Canxi – Photpho cho tôm ăn trong 1 tuần.
8. Quản lý tảo lục trong ao tôm
Trong mùa mưa, nếu quản lý không tốt có thể làm cho nước ao nuôi giảm xuống dưới 10‰ là điều kiện thuận lợi để tảo lục xuất hiện làm cho nước ao tôm có màu xanh như nước rau má. Khi đó, ao tôm có hiện tượng tảo tàn, pH dao động mạnh trong ngày, thiếu oxy vào lúc sang sớm làm cho bị tôm đóng rong, đen mang, vàng mang…
Để khắc phục hiện tượng này cần dùng BKC để cắt tảo theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tuy nhiên cần chú ý là chỉ tạt BKC vào 1/3 ao phía cuối gió vào lúc nắng gắt và không quạt nước, sau đó vớt tảo tàn phía cuối gió, đồng thời sử dụng Zeolite để hấp thụ khí độc do xác tảo lắng dưới đáy ao bị phân hủy sinh ra.
9. Quản lý thức ăn tôm chặt chẽ sau mưa
Thông thường việc điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày dựa vào sàng ăn. Tuy nhiên, nếu thấy thời tiết ảm đạm, sắp mưa cần giảm lượng thức ăn hoặc ngưng cho ăn nếu mưa đến gần. Sau khi mưa dứt thì mới bắt đầu cho tôm ăn trở lại nhưng lượng thức ăn giảm từ 30-50% so với bình thường do các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột làm tôm bị sốc, giảm ăn. Nếu cho tôm ăn dư thừa sẽ làm tăng chi phí nuôi, hơn nữa làm ô nhiễm môi trường nước, dẫn đến sự nở hoa của tảo, tăng khí độc…
Bên cạnh đó, trong mùa mưa, tôm nuôi có thể bị mềm vỏ, khó lột xác do độ kiềm giảm thấp. Để khắc phục tình trạng này ngoài việc dùng Dolomite, liều lượng 10 – 20 kg/1.000 m3 xử lý từ từ cho đến khi độ kiềm đạt ngưỡng cho phép thì cần cho tôm ăn thức ăn chất lượng cao, có thể trộn vào bữa chính các loại Vitamin C, Vitamin tổng hợp và khoáng chất hàng ngày.
Nguồn: Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam